Ký sinh trùng Anisakis thuộc giới Animalia, ngành Nematoda, lớp Secernentea, bộ Ascaridida, họ Anisakidae, giống Anisakis và gồm có nhiều loài khác nhau như Anisakis pegreffii, A. physeteris, A. schupakovi, A. simplex, A. typica, A. ziphidarum, Anisakis simplex .
Bệnh do Anisakis (bệnh Anisakis) là một bệnh nhiễm ký sinh trùng ở đường tiêu hóa do người ăn hải sản sống hoặc nấu chưa chín có chứa ấu trùng giun Anisakis simplex. Trung gian truyền bệnh thường gặp là các loài cá, mực và giáp xác. Trong trung gian truyền bệnh ấu trùng phát triển nhưng không tới giai đoạn trưởng thành. Khi các loài động vật biển có vú như hải cẩu, sư tử biển, cá heo, cá voi … ăn cá, động vật giáp xác, ấu trùng phát triển thành những con giun trưởng thành. Ở người, ấu trùng không thể hoàn thành sự phát triển của chúng và thành nguyên nhân gây nhiễm. Các triệu chứng của anisakiasis bao gồm đau bụng dữ dội, buồn nôn và nôn. Trong một số trường hợp, các kháng nguyên có trong Anisakis simplex có thể gây phản ứng dị ứng và quá mẫn. Hầu hết các ca nhiễm ở người đã được báo cáo từ Nhật Bản, Hà Lan và Tây Ban Nha.
Bệnh Anisakis thường được tìm thấy ở những nơi hay ăn gỏi các loại cá biển, mực, bạch tuộc chưa nấu chín, chẳng hạn như: Nhật Bản (các món shushi và sashimi) và có trên 12.000 trường hợp mắc bệnh được thông báo ở Hà Lan (cá trích); bán đảo Scandinavia và bờ biển Thái Bình Dương thuộc châu Mỹ La tinh. Bệnh đang được tăng lên ở Hoa Kỳ, Châu Âu, Nam Mỹ và các khu vực khác trên thế giới cùng với việc tăng tiêu thụ gỏi cá sống đang được phổ biến.
Giun trưởng thành có kích thước dài khoảng hơn 2cm. Miệng nằm ở phía trước và bao quanh bởi các thành phần được sử dụng trong ăn uống và cảm giác, hậu môn ở phía sau. Cơ thể có lớp tế bào tiết ra lớp biểu mô bảo vệ cơ thể khỏi các dịch tiêu hóa của ký chủ
Hình 1: Con trưởng thành A. simplex (Nguồn: CDC) |
Hình 2: Miệng của A. simplex (Nguồn: CDC) |
Động vật có vú ở biển như (cá voi, cá heo…) và các loài chân màng (sư tử biển, hải cẩu, hải mã…) là ký chủ chính của giun trưởng thành; ký chủ trung gian đầu tiên là các loài giáp xác biển là tôm; ký chủ trung gian thứ hai là cá thu, cá mòi, cá hồi, cá trích, bạch tuộc, mực ….; người là ký chủ tình cờ khi nuốt phải ấu trùng.
Hình 3: Chu trình phát triển của A. simplex (Nguồn: CDC)
Giun trưởng thành ký sinh dạ dày của các loài động vật có vú ở biển và đẻ trứng, trứng theo phân ra ngoài. Trứng phát triển trong môi trường nước (1) thành ấu trùng L1 và L2 (2a); ấu trùng L2 được nở ra từ trứng và bơi lội tự do trong nước (2b); Ấu trùng L2 bị các loài giáp xác ăn và phát triển thành ấu trùng L3 có khả năng gây bệnh (3); khi cá và mực ống ăn các loài giáp xác có chứa ấu trùng L3, ấu trùng sẽ di chuyển từ ruột đến các mô trong khoang phúc mạc và lớn lên dài khoản 3 cm (4), khi ấu trùng chết sẽ di chuyển đến các mô, cơ. Cá và mực duy trì ấu trùng L3 gây nhiễm cho người và động vật có vú biển (5); khi động vật có vú ở biển ăn cá hoặc mực có chứa ấu trùng L3, ấu trùng thoát vỏ 2 lần phát triển thành con trưởng thành và con cái đẻ trứng (6); Người bị nhiễm bệnh do tình cờ nuốt phải ấu trùng có trong hải sản sống hoặc chưa được nấu chín (7). Sau khi ăn phải, ấu trùng ấu trùng xâm nhập vào niêm mạc dạ dày và ruột, gây ra các triệu chứng của anisakiasis.
Trong vài giờ sau khi ăn ấu trùng bị nhiễm bệnh, đau bụng dữ dội, buồn nôn, và nôn có thể xảy ra. Đôi khi ho ra ấu trùng. Nếu ấu trùng đi vào ruột, phản ứng u hạt nặng bạch cầu eosin có thể xảy ra sau 1-2 tuần bị nhiễm. Các biểu hiện dị ứng cấp tính như nổi mày đay và sốc phản vệ có thể xảy ra khi có hoặc không kèm theo các triệu chứng tiêu hóa. Tần suất các triệu chứng dị ứng liên quan đến việc ăn cá dẫn đến khái niệm anisakiasis gây tiêu chảy, một phản ứng tổng quát do trung gian IgE tạo ra. Bệnh nghề nghiệp bao gồm bệnh hen, viêm kết mạc và viêm da tiếp xúc đã được quan sát thấy ở các công nhân chế biến thủy sản. Một hình thức lành tính hơn của nhiễm trùng, được gọi là anisakiasis thoáng qua, xảy ra mà không có triệu chứng hoặc kích ứng cổ họng nhẹ và thỉnh thoảng ho ra ấu trùng. Những nhiễm trùng thoáng qua thường không được chẩn đoán.
Chẩn đoán có thể được thực hiện bằng cách kiểm tra thói quen ăn uống của bệnh nhân và tiếp xúc với hải sản sống hoặc chưa chế biến. Chẩn đoán chính xác được thực hiện bằng cách thu thập và hình dung ra giun thông qua gastroscopy, phẫu thuật, hoặc trong nôn của bệnh nhân. Chẩn đoán anisakiasis dạ dày bằng cách loại bỏ con trưởng thành bằng nội soi; chẩn đoán anisakiasis ruột khó khăn hơn; Tuy nhiên, thường có thể được quản lý mà không cần loại bỏ các con trưởng thành bởi vì con trưởng thành cuối cùng sẽ chết. Phẫu thuật có thể được yêu cầu đối với nhiễm trùng đường ruột hoặc ngoài da khi tắc nghẽn đường ruột, viêm ruột thừa, hoặc viêm phúc mạc xảy ra. Do triệu chứng mơ hồ, anisakiasis thường bị chẩn đoán sai như viêm ruột thừa hoặc bệnh Crohn.
Sự nhạy cảm và dị ứng được xác định bằng phương pháp thử da và phát hiện các kháng thể đặc hiệu chống lại anisakis. Quá mẫn cảm được biểu hiện bởi sự gia tăng nhanh chóng mức IgE trong vài ngày đầu sau khi tiêu thụ cá nhiễm bệnh. Các xét nghiệm Serodiagnostic sẵn có đối với phản ứng của Anisakis bao gồm các quy trình kết tập dựa trên latex, xét nghiệm Ouchterlony và miễn dịch huỳnh quang.
Albendazole 400 mg x 2 lần/ngày trong 6 đến 21 ngày đã được báo cáo trong các trường hợp có tiền sử hoặc chẩn đoán huyết thanh học.
Để phòng bệnh cho người chủ yếu bằng truyền thông giáo dục sức khỏe, không ăn gỏi cá hoặc cá, mực chưa nấu chín
Nâng cao nhận thức của người tiêu dùng và nhà sản xuất về sự tồn tại của ấu trùng ở cá là một chiến lược ngăn ngừa hiệu quả. Ấu trùng Anisakis có thể dễ dàng ngăn ngừa bằng cách nấu chín thức ăn ở nhiệt độ >600C hoặc đóng băng. FDA khuyến cáo rằng tất cả các loại cá và động vật có vỏ sống được sử dụng làm thức ăn thô là đông lạnh đông đến -350C hoặc thấp hơn ở 15 giờ hoặc thường xuyên đông lạnh đến -200C hoặc thấp hơn trong 7 ngày. Ướp muối sẽ không giết chết ký sinh trùng.
Nguyễn Thị Mộng Siêng
Tài liệu tham khảo: